Dịch vụ quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp tại Hà Nội

 

Xin TS. San sẻ một số ý nghĩa lớn của việc phối hợp tốt giữa CSTK và CSTT?

Việc phối hợp tốt không những giúp đảm bảo tính ổn định và vững bền của chính sách (qua đó giúp nâng mức độ tín nhiệm chính sách) mà còn giúp giảm sức ép lạm phát; sức ép tăng lãi suất, tăng tỷ giá… từ đó giúp củng cố ổn định thị trường tài chính - tiền tệ.

Một khi sự kết hợp các chính sách này được thực hiện tốt cũng là cơ sở quan trọng để phát triển thị trường tài chính - tiền tệ cũng như giúp tăng hiệu quả tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế và cách tân hệ thống tài chính mà chúng ta đang triển khai.

Như vậy, việc giúp cho ổn định và tăng trưởng kinh tế bền vững có lẽ là ý nghĩa lớn nhất mà sự phối hợp nhịp nhàng giữa CSTK và CSTT sẽ mang lại.

Sở dĩ sự phối hợp này rất cấp thiết vì chúng ta thấy luôn có sự tác động qua lại, biện chứng giữa CSTT và CSTK. Đơn cử, một cơ chế quản lý tài khóa yếu kém và nợ công cao không sớm thì muộn sẽ làm tăng kỳ vọng lạm phát, tăng lãi suất, giảm giá trị đồng nội tệ. Hay như phương thức vay nợ công và tài trợ thâm hụt ngân sách (vay trong hay ngoài nước, phát hành công cụ nợ…) sẽ tác động đến lượng cung tiền, xu thế nắm giữ trái phiếu Chính phủ và lãi suất thị trường…

Trong khi đó, về phía CSTT, một khi để cho lạm phát và lãi suất cao hoặc biến động mạnh thế tất làm tăng nguy cơ giảm nguồn thu ngân sách, giảm tiềm năng tăng trưởng kinh tế và gián tiếp làm tăng tỷ lệ nợ công/GDP. Các động thái của CSTT theo hướng thắt chặt hay nới lỏng cũng đồng nghĩa với các lãi suất sẽ tăng hoặc giảm, qua đó tác động đến phí huy động tài trợ thâm hụt ngân sách. Hay việc sử dụng các dụng cụ của CSTT (như: OMO, tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc…) sẽ tác động đến tính thanh khoản của chứng khoán Chính phủ. Ngoại giả, chính sách tỷ giá theo hướng nào cũng sẽ tác động đến vấn đề nợ nước ngoài.

  Nhìn lại giai đoạn 2011-2013, phối hợp giữa CSTK và CSTT tại Việt Nam thể hiện những mặt hăng hái gì?  

Trong thời đoạn này, chúng ta đã thấy nhiều nét hăng hái trong phối hợp các chính sách này (so với trước đây). Điều này biểu hiện ở sự "đồng nhịp" hơn trong một số mảng:

Thứ nhất, sự đồng nhịp về chủ trương, định hướng. Trong thời đoạn này, đích ổn định KTVM, kiểm soát lạm phát luôn được đặt lên là ưu tiên hàng đầu. Theo đó, CSTT đã được thực hiện một cách chặt chẽ, cẩn trọng và linh hoạt. Trong khi đó, CSTK cũng dần được thắt chặt (2011); chặt, hiệu quả (2012, 2013).

Thứ hai, đồng nhịp về công cụ (tính đồng bộ các giải pháp). Sự đồng nhịp này biểu hiện ở chỗ CSTT đi theo hướng kiểm soát tăng trưởng cung tiền và tín dụng, điều hành tỷ giá linh hoạt, điều hành lãi suất theo tín hiệu lạm phát và thị trường…. Cùng lúc đó, CSTK được vận hành theo hướng giảm, giãn, miễn thuế; tăng hiệu quả đầu tư công và vay nợ nước ngoài…

Thứ ba, đồng nhịp về thiện ý cộng tác. Có thể thấy rất rõ điều này qua một số minh chứng cụ thể như vào tháng 2/2012, NHNN và Bộ Tài chính đã ký "Quy chế phối hợp công tác và luận bàn thông báo". Tiếp đó, Sở giao thiệp NHNN, Kho bạc quốc gia, SGDCK Hà Nội và trọng tâm Lưu ký chứng khoán cũng đã kết hợp đưa tín phiếu Kho bạc lên giao tế thành công trên thị trường thứ cấp, qua đó góp phần tăng quy mô và tính thanh khoản của thị trường nợ.

Những núm phối hợp này đã góp phần quan trọng cho ổn định KTVM, giúp tăng trưởng kinh tế ở mức bình quân khu vực (5-6%,); giúp kiểm soát lạm phát (dù vẫn còn cao so khu vực), đồng thời góp phần lành mạnh cán cân thanh toán.

  Nhưng ắt hẳn trong thời đoạn này cũng có những hạn chế và "lạc điệu"?  

Đúng là tình trạng "lạc nhịp, lạc điệu" vẫn xảy ra và có thể khái quát lại ở mấy điểm chính sau:

  Một là, lạc điệu về tính nhất quán, liều lượng và thời khắc  . Mặc dầu cùng đích lớn là ổn định KTVM và kiềm chế lạm phát, nhưng CSTK và CSTT cũng có những dấu hiệu "lạc lõng" về 3 mặt trên. Đơn cử như năm 2010, CSTT đang theo hướng giảm nới lỏng thì CSTK vẫn đấu "thoải mái", nhất là trong đầu tư công. Hay như trong khi CSTT cẩn trọng hơn về mặt tín dụng thì CSTK vẫn cho phép nới lỏng (thâm hụt ngân sách, nợ công tăng trở lại).

Một tín hiệu khác là việc tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ làm tăng áp lực lạm phát và tăng lãi suất (trong khi CSTT đang theo thiên hướng giảm lãi suất), và có dấu hiệu "chèn lấn" tín dụng tư nhân.

  Hai là, lạc lõng về "điều hành giá cả".   Như đã đề cập ở trên, trong giai đoạn này, khi CSTT được điều hành theo hướng cẩn trọng, thì lịch trình đổi thay giá hàng hóa cần yếu (điện, xăng dầu, lương tối thiểu, dịch vụ y tế, giáo dục….) Nghe đâu lại "một mình một ngựa", khá tách biệt với điều hành CSTT. Tỉ dụ như với giá điện, theo thống kê, giai đoạn 2011-2013, mặt hàng này đã tăng 6 lần.

  Ba là, lạc lõng trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế.   Điều này có thể thấy rõ qua thực tại công cuộc tái cơ cấu các TCTD (kể cả xử lý nợ xấu) chuyển biến khá hăng hái theo lịch trình trong khi đó tái cơ cấu DNNN và đầu tư công diễn ra rất chậm.

Ngoài ra, có thể thấy các dấu hiệu lạc điệu khác như trong giám sát, ổn định tài chính - tiền tệ (chưa có mai dong giám sát tập đoàn tài chính - ngân hàng và các nghiệp vụ phi nhà băng như cho vay chứng khoán, ủy thác đầu tư diễn biến phức tạp…); trong cung cấp thông tin, thảo luận; trong hoạch định và thực hành đích chính sách ngắn và trung hạn; trong "phân vai" (biểu đạt ở chỗ nhiều việc CSTT đã phải "gánh vai" CSTK như cho vay tạm ứng ngân sách phóng thích mặt bằng, tạm ứng ngân sách giải ngân vốn đối ứng ODA, thực hành gói tương trợ cho vay mua nhà ở 30.000 tỷ đồng hay việc phát hành trái khoán đặc biệt để xử lý nợ xấu…).

  Vậy giải pháp nào trong năm nay và những năm sắp tới để thúc đẩy tính "đồng điệu", đồng thời giảm thiểu những "lạc lõng" trong kết hợp 2 chính sách này?  

Chúng ta hãy nhìn các giải pháp trên các góc độ thể chế, hoạt động và năng lực thực hành.

Về mặt thiết chế, cần xem xét thành lập và vận hành hiệu quả của "Ủy ban/Hội đồng tài chính - tiền tệ quốc gia". Như kinh nghiệm của Trung Quốc, Ủy ban này có thể chịu trách nhiệm "điều phối" cả mảng quản lý nợ công. Cùng với đó, cần xây dựng cơ chế phối phối hợp chính thức (do Chính phủ ban hành) với hiệu lực thi hành cao và có mối manh giám sát thực hiện.

Đến thời điểm này, cũng cần hướng hoạt động NHNN tới việc điều hành theo "lạm phát mục tiêu". Một nhân tố vô cùng quan trọng khác là cần thiết lập và tăng hiệu lực kỷ luật tài khóa.

Về mặt hoạt động, cần vắt giảm lạc lõng trong nhất quán chính sách (cả về mặt liều lượng và thời điểm). Một số vấn đề cụ thể cần lưu ý như: Cần khống chế hạn mức tối đa về tín dụng NHNN cung cấp để tài trợ thâm hụt ngân sách; Thiết lập và tuân "Kỷ luật tài khóa" (hạn mức thâm hụt ngân sách, hạn mức "lỗ" của NHNN…); Xây dựng và thực hành "Khung lập trình tiền tệ quốc gia" với mục đích dùng mô hình tài chính để hợp nhất các nhân tố, các liều lượng cụ thể nhằm đạt được các cân đối vĩ mô chính một cách khoa học, có cơ sở; Thiết lập dắt mối đàm luận, tham vấn thông tin (đặc biệt phục vụ tài trợ ngân sách, hoạch định chính sách…).

Về năng lực, nền móng kỹ thuật, cần giao hội vào các biện pháp để tăng cường bàn thảo kinh nghiệm, kết hợp tổ chức đào tạo cán bộ, tổ chức các hội nghị, hội thảo và các cách thức khác để san sẻ thông tin, dữ liệu. Theo đó, minh bạch thông tin là một nhân tố quan yếu. Bên cạnh đó, có thể xem xét tăng cường luân chuyển cán bộ giữa NHNN và Bộ Tài chính, giữa các Bộ, ngành và các NHTM, các doanh nghiệp lớn, qua đó tăng khả năng phối hợp chính sách và khiến chính sách có "hơi thở cuộc sống" hơn.

 

 

 

Điểm mặt 3 'lạc điệu' trong phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ

 

 

 

phối hợp tốt giữa chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) là yêu cầu tất yếu để đạt được các đích kinh tế vĩ mô (KTVM). Xung quanh vấn đề này, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính ngân hàng đã có cuộc đáp phỏng vấn..

 

 

 

 
Coppyright © Công Ty Tư Vấn Quản Lý Thuế Hà Nội
Top